Đẩy mạnh hợp tác Việt Nam – Viện Liên Hiệp Nghiên Cứu Hạt Nhân (JINR)

Viện Liên hiệp Nghiên cứu Hạt nhân (JINR) được thành lập theo Công ước do 11 nước sáng lập ký ngày 26/3/1956, là một tổ chức nghiên cứu khoa học liên Chính phủ, nhằm liên kết tiềm năng vật chất và chất xám của các nước thành viên phục vụ cho các chương trình phát triển khoa học của mỗi nước thành viên. Viện được xây dựng tại thành phố Dubna, ngoại ô của Moscow, Liên Bang Nga. Việt Nam là nước thành viên thứ 12 ký Công ước sáng lập JINR vào năm 1956. Năm 1982, Viện Khoa học Việt Nam (nay là Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã được Chính phủ giao nhiệm vụ là cơ quan đầu mối để điều phối các hoạt động hợp tác nghiên cứu khoa học giữa Chính phủ Việt Nam và Viện Liên hiệp Nghiên cứu Hạt nhân.
Hội đồng đại diện toàn quyền là Hội đồng đứng đầu của Viện Liên hiệp Nghiên cứu Hạt nhân và có quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến hoạt động của Viện. Hiện nay, Hội đồng Đại diện Toàn quyền gồm tất cả các thành viên đại diện cho quốc gia là thành viên chính thức. Ban lãnh đạo JINR do Hội đồng toàn quyền bầu theo nguyên tắc bình đẳng.
Đại diện Toàn Quyền của Chính phủ Việt Nam tại JINR qua các thời kì lần lượt là GS. Trần Đại Nghĩa, GS. Lê Văn Thiêm, GS. VS. Nguyễn Văn Hiệu, GS. Lê Hồng Khiêm, và hiện nay là GS. TS. Trần Tuấn Anh.

Vai trò của JINR với sự phát triển khoa học của Việt Nam

Kết quả lớn nhất của việc Việt Nam tham gia thành viên chính thức của JINR là công tác đào tạo cán bộ. Sau gần 60 năm, Việt Nam đã xây dựng được một đội ngũ các nhà khoa học, đặc biệt trong lĩnh vực vật lý và hóa học. Phần lớn các cán bộ được đào tạo và làm việc tại Viện Dubna sau khi hoàn thành nhiệm vụ trở về Việt Nam đã tiếp tục công việc nghiên cứu và đạt được nhiều kết quả cao, đặc biệt là trong các lĩnh vực về vật lý lý thuyết và vật lý hạt nhân. Một số người đã trở thành các cán bộ chủ chốt lãnh đạo các hướng nghiên cứu chuyên môn. Nhiều người đã trở thành cán bộ lãnh đạo các ngành khoa học của đất nước. Cho đến năm 1991 đã có tổng số 292 cán bộ khoa học Việt Nam được đào tạo dài hạn và ngắn hạn, trong đó có 6 cán bộ đã bảo vệ luận án tiến sĩ khoa học và nhiều cán bộ đã bảo vệ luận án tiến sĩ tại JINR. Nhiều nhà vật lý có tên tuổi của Việt Nam đã được đào tạo tại Viện Dubna như GS. Nguyễn Đình Tứ, GS. VS. Nguyễn Văn Hiệu, GS. Đặng Vũ Minh, GS. Phạm Duy Hiển, GS. Đào Vọng Đức, GS. Cao Chi, GS. Đoàn Nhượng, GS. Chu Hảo,… và sau này là rất nhiều các nhà khoa học khác.

Phần lớn các cán bộ được đào tạo tại Viện Dubna đã tiếp tục công việc nghiên cứu và đạt được nhiều kết quả cao. Nhiều nhà khoa học Việt Nam và Liên bang Nga đã được nhận giải thưởng cao quý như: GS. Nguyễn Đình Tứ được tặng Huân chương Hữu nghị năm 1980 vì đã cùng các đồng nghiệp tại JINR phát hiện ra hạt Antisigma minus hyperon vào năm 1960 và công trình được đăng ký phát minh Nhà nước Liên Xô năm 1968. GS. VS. Nguyễn Văn Hiệu cùng các đồng nghiệp tại JINR được tặng giải thưởng Lê Nin vào năm 1986 về công trình “Định luật bất biến kích thước của quá trình sinh hạt”. Năm 1986, GS. Nguyễn Văn Hiệu được Nhà nước Liên Xô tặng Huân chương Hữu nghị. Năm 2006, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam trao tặng Huân chương Hữu nghị của Chính phủ Việt Nam cho JINR. JINR không chỉ giúp đào tạo nhân lực trình độ cao cho Việt Nam mà còn giúp Việt Nam xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ nghiên cứu cơ bản và ứng dụng trong lĩnh vực vật lý hạt nhân. JINR Dubna đã trang bị cho Viện Vật lý máy phát nơtron 14 MeV NA – 3C vào năm 1974; trang bị cho Viện Khoa học Việt Nam máy gia tốc Microtron MT-17 vào năm 1982. Đây là những máy gia tốc đầu tiên ở Đông Nam Á, đã góp phần thúc đẩy việc phát triển nghiên cứu trong lĩnh vực vật lý hạt nhân ở Viện Khoa học Việt Nam trước đây nói riêng và Việt Nam nói chung. Ngoài ra, những hệ máy được trang bị đã đóng góp rất nhiều cho ngành địa chất trong việc phân tích các mẫu khoáng sản, phục vụ cho công nghiệp khai khoáng của Việt Nam.

Hoạt động nghiên cứu của cán bộ khoa học Việt Nam tại Viện Liên Hiệp Nghiên Cứu Hạt Nhân Dubna hiện nay theo các hướng ưu tiên

<span data-metadata=""><span data-metadata=""><span data-buffer="">Các cán bộ Việt Nam làm việc tại JINR, năm 2024

Sau khi Liên xô tan rã, việc hợp tác giữa Việt Nam và JINR bị chững lại do nhiều nguyên nhân. Trong giai đoạn từ 1992 đến 2012, số cán bộ Việt Nam làm việc tại JINR rất ít. Bắt đầu từ 2013, số cán bộ Việt Nam tại Dubna đã tăng lên nhanh chóng. Các cán bộ nghiên cứu của Việt Nam đã chủ động tham gia vào các hoạt động nghiên cứu khoa học tại JINR theo các hướng khác nhau được liệt kê dưới đây. Những hướng nghiên cứu này cũng là các hướng nghiên cứu ưu tiên của Việt Nam, cần cho sự phát triển khoa học của đất nước.

– Nghiên cứu vật lý lý thuyết bao gồm: lý thuyết chất rắn, lý thuyết trường
– Nghiên cứu thực nghiệm vật lý năng lượng cao
– Nghiên cứu phản ứng hạt nhân trên máy gia tốc gây bởi các chùm hạt nhân phóng xạ và chùm photon
– Nghiên cứu phản ứng hạt nhân gây bởi nơtron trên nguồn phát nơtron xung cộng hưởng IREN
– Phân tích kích hoạt nơtron trên lò phản ứng hạt nhân IBR-2
– Nghiên cứu vật liệu dùng máy gia tốc EG-5
– Nghiên cứu cấu trúc của các vật liệu mới sử dụng phổ kế nhiễu xạ nơtron trên lò phản ứng hạt nhân IBR-2
– Tham gia thiết kế máy gia tốc
– Nghiên cứu sinh học bức xạ
– Nghiên cứu xử lý chất thải phóng xạ sử dụng máy gia tốc
– Nghiên cứu về vật liệu nano
– Thiết kế các hệ ghi nhận bức xạ

Tác giả: GS. TS. Lê Hồng Khiêm